[Thiền sư] Phật Nhật Khế Tung
- 15 Jan, 2025

Giới thiệu
Thiền sư Phật Nhật Khế Tung vị tăng của Vân Môn Tông Trung Quốc, người vùng Đàm Tân (鐔津) thuộc Đằng Châu (藤州, Tỉnh Quảng Tây), họ là Lý (李), tự là Trọng Linh (仲靈), tự xưng hiệu là Tiềm Tử (潛子).
Thiền sư Khế Tụng ở Phật nhật tại Hàng châu, vốn người dòng họ Lý thuộc Phiêu tân, Ðằng châu.
Vào năm thứ 6 (1013) niên hiệu Đại Trung Tường Phù (大中祥符), ông xuất gia lúc mới 7 tuổi, và đến năm lên 13 tuổi thì xuống tóc thọ giới.
Năm 19 tuổi, ông đi hành cước khắp nơi, tham yết Thần Đỉnh Hồng Nhân (神鼎洪諲) ở Nam Nhạc, và cuối cùng kế thừa dòng pháp của Động Sơn Hiểu Thông (洞山曉聰) ở Quân Châu (筠州, Tỉnh Giang Tây).
Ban đêm, Sư đưa đảnh đầu mang đội tôn tượng Bồ-tát Quán Thế m và trì niệm danh hiệu đủ số mười vạn biến mới đi ngủ đó là lệ thường. Từ đó đối với các thứ kinh thư chương cú ở thế gian, Sư không học mà tự thông, soạn thuật “Nguyên giáo luận” có hơn 10 vạn từ. Thấu suốt đạo lý của Phật và nho đều là Nhất quán, để chống kháng Tông Hàn vạch bày Phật thuyết, người đọc vào đó thảy đều sợ phục.
Về sau, Sư đến ở Vĩnh an lan nhã, trước thuật “Thiền môn định Tổ đồ truyện Chánh Tông Ký”.
Trong khoảng niên hiệu Khánh Lịch (慶曆, 1041-1048), ông đến Tiền Đường (錢塘) và sống tại Hồ Sơn (湖山), rồi theo tham học với Vĩnh An Lan Nhã (永安蘭若) ở Linh Ẩn Tự (靈隱寺).
Ông viết cuốn Nguyên Giáo Hiếu Luận (原敎孝論) để nói về sự nhất quán của Nho và Thích và phản bác luận thuyết bài Phật của Hàn Thối Chi (韓退之).
Bên cạnh đó ông còn trước tác Thiền Môn Định Tổ Đồ (禪門定祖圖), Truyền Pháp Chánh Tông Luận (傳法正宗論) và Phụ Giáo Biên (輔敎編) để làm rõ hệ thống truyền thừa của Thiền Tông.
Ngoài ra, ông còn một số các trước tác khác như Truyền Pháp Chánh Tông Ký (傳法正宗記), Đàm Tân Văn Tập (鐔津文集), Trị Bình Tập (治平集),…
Phụ giáo biên ghi tấu trình, vua Nhân Tông (Triệu Trinh 1023 - 1064) đọc xem mà tán thán, đưa đến viện truyền pháp biên ghi vào tạng.
Vua ban chiếu ngợi khen tưởng thưởng, sắc phong hiệu là “Minh Giáo”.
Quan Hàn Kha, Dương Tu đều thỉnh mời để diện kiến mà kính lễ Sư, kịp đến lúc trở về phương Ðông.
Vào năm thứ 6 (1061) niên hiệu Gia Hựu (嘉祐), ông trình những trước tác của mình lên vua Nhân Tông; nhà vua xem xong hạ chiếu chỉ ban thưởng và năm sau ban cho ông hiệu Minh Giáo Đại Sư (明敎大師).
Về sau ông đến sống tại Phật Nhật Sơn (佛日山) và thị tịch vào ngày mồng 4 tháng 6 năm thứ 5 niên hiệu Hy Ninh (熙寧), hưởng thọ 66 tuổi.
Ngày mồng 4 tháng 6 năm Hy Ninh thứ tư (1071) thời Bắc Tống, vào lúc sáng sớm, Sư ngẫu hứng làm bài kệ rằng:
Ðêm sau trăng mới tỏ
Nay ta mừng riêng đi
Chẳng học mai già lớn
Tham nghe tiếng chuột kêu.
Ðến nửa đêm đó, Sư bèn thị tịch, trà tỳ có 5 thứ không tiêu hoại là:
- cốt đảnh đầu (Cốt xương đỉnh đầu có xá-lợi sắc màu hồng trắng sạch đẹp)
- lỗ tai
- chiếc lưỡi
- đồng chân
- và chuỗi châu
Các hàng Ðạo tục gọm nhặt các thứ không tiêu hoại ấy an táng tại bên tả của Vĩnh an.
Về sau ở Tịnh từ, Bắc giản, Cư giản từng có trước thuật các bài tán thán năm thứ không tiêu hoại.
Sư có bộ văn tập gồm 20 quyển, mục đề biên ghi là “Phiêu tân” hưng thạnh lưu truyền nơi đời.
Ngữ lục
- Minh Giáo Tung Hòa thượng nói: Cao chẳng gì cao bằng đạo, đẹp chẳng gì đẹp bằng đức.
Người có đạo đức tuy là kẻ thất phu[1] cũng không phải là cùng, kẻ không có đạo đức, tuy là đấng vương giả cũng không phải là thông.
Bá Di, Thúc Tề[2] xưa kia là người chết đói; đời nay, nếu người ta lấy đó để so sánh thì mọi người đều mừng.
Kiệt, Trụ[3], U, Lệ[4] xưa kia là đấng nhân chủ; đời nay, nếu người ta lấy đó để so sánh thì mọi người đều giận.
Thế nên, người học giả chỉ lo phần đạo đức của mình không trọn vẹn, chứ đừng lo thế vị không đến với mình.
- Ngài Minh Giáo nói: Cái học của Thánh hiền, cố nhiên chẳng phải một ngày mà đủ, ngày chẳng đủ thì kế đêm, rồi chứa góp hàng tháng hàng năm tự nhiên sẽ thành tựu.
Nên nói: học để tích lũy tri thức, hỏi để biện minh[2].
Câu này có nghĩa là, nếu học mà không biện vấn thì không do đâu mà phát minh.
Ðời nay ít có những người học thường nêu ra câu hỏi để vấn biện với người, như vậy không biết đem cái gì để giúp ích cho tính địa[3], trở thành cái lợi ích đổi mới mỗi ngày vậy ư!
- Ngài Minh Giáo nói: Thái Sử Công[1] đọc sách Mạnh Tử tới chỗ Lương Huệ Vương hỏi thầy Mạnh Tử[2], đem gì để lợi cho nước tôi, bất giác để sách xuống mà thở dài.
Than ôi! “Lợi thực là cái mầm mống của loạn, nên Phu Tử[3] Ngài ít nói đến lợi, để đề phòng cái gốc.
Vì gốc là mầm mống phát sinh.
Người tôn quý kẻ bần tiện, đối với cái tệ hiếu lợi thì đều giống nhau.
Ôi! Người ở chỗ công, nếu lấy lợi không công bằng, thời làm rối loạn pháp luật, kẻ ở chỗ riêng, nếu lấy lợi bằng cách lừa bịp, thời làm rối loạn sự việc. Sự việc rối loạn thời nhân sự bất bình, pháp luật rối loạn thời nhân dân chẳng phục. Gây ra mối họa xung đột rồi cùng nhau đấu tranh, chẳng đoái hoài đến cảnh chết chóc cũng vì thế mà phát sanh. Ðó chẳng phải chỉ vì lợi mà trở thành cái mầm mống rối loạn đấy ư? Như các bậc Thánh hiền xưa kia thì lại cảnh giới, bỏ cái lợi mà tôn điều nhân nghĩa, mà người đời sau lại cậy mối lợi để dối trá lẫn nhau, làm tổn thương đến phong tục, bại hoại đến thanh giáo không có giới hạn, lại còn công nhiên noi theo con đường tranh danh đoạt lợi để đi, mà muốn phong tục tốt trong thiên hạ không phai không mờ, há lại được vậy ư!”
- Ngài Minh Giáo nói: Phàm con người làm điều ác, có điều ác hữu hình, có điều ác vô hình.
Phần ác vô hình là việc hại người, phần ác hữu hình là việc giết người.
Cái ác giết người thì nhỏ, cái ác hại người thì lớn.
Sở dĩ trong tiệc yến ẩm có chất độc của loài chim trậm[1], trong chỗ cười đùa có chứa ẩn các loài giáo mác, trong nhà sâu kín có hổ báo, trong ngõ hẻm bên cạnh có rợ Nhung, Ðịch[2]. Nếu tự mình không phải là thánh hiền, không tận diệt khi nó hãy chưa manh nha, không phòng ngừa bằng lễ, pháp[1], thời cái hại đó không thể lường được.
- Ngài Minh Giáo nói: Ðại Giác Liên Hòa thượng[1] khi ở chùa Dục Vương.
Nhân có hai ông tăng tranh cãi nhau về phần thí lợi[2], vị chủ sự[3] không hay quyết đoán được.
Ðại Giác Hòa thượng liền gọi đến mắng rằng:
Trước Bao Công làm tài phán[4] ở đất Khai Phong, có người dân đến tự trình bày: “Có người đem số bạc 100 lạng gửi tôi rồi mất, nay tôi đem số bạc đó trả lại cho người con của ông ta, nhưng người đó không chịu nhận, vậy mong ông cho gọi người đó để trả lại hộ”. Ông rất kinh dị, liền cho gọi người con đó nói rõ sự việc, nhưng người đó cố từ và nói: “Ngày sinh thời, cha tôi không hề có bạc riêng để gửi người khác. Hai người cố nhường nhau mãi, ông bất đắc dĩ phải đem số bạc cúng vào chùa, làm việc phúc thiện để truy tiến cho người mất”. Ta mục kích thấy việc đó. Kìa như trong chốn trần lao[1], cũng còn hay khinh tài trọng nghĩa như vậy, huống hồ các người là đệ tử Phật lại chẳng biết liêm sỉ hay sao? Hòa thượng liền y pháp của tùng lâm đuổi hai vị tăng ra khỏi chùa.
Cảnh ngữ
Tác phẩm
Thông tin khác